Uncategorized @vi

Hoàn thiện hành lang pháp lý cho quản lý chất lượng và nhãn hàng hóa

Ngày 12/9, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia tổ chức hội thảo lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quy định về nhãn hàng hóa.

Ngày 18/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (Luật số 78/2025/QH15). Ngày 14/7/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1526/QĐ-TTg ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9, trong đó giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Nghị định quy định về nhãn hàng hóa trình Chính phủ trước ngày 15/10/2025.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Khoa học và Công nghệ đã nghiên cứu, xây dựng hồ sơ Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quy định về nhãn hàng hóa. Thực hiện quy định về lấy ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quy định về nhãn hàng hóa.

Ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Ủy ban TCĐLCL Quốc gia.

Tham dự hội thảo có ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Ủy ban TCĐLCL Quốc gia, bà Nguyễn Thị Mai Hương – Trưởng ban Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp, ông Bùi Bá Chính – Quyền Giám đốc Trung tâm Mã số, Mã vạch Quốc gia, cùng đại diện các Bộ, ngành, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội, doanh nghiệp.

Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Ủy ban TCĐLCL Quốc gia cho biết, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ, đặc biệt trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Một trong những điểm đổi mới đáng chú ý là quy trình xây dựng văn bản pháp luật đã được rút ngắn đáng kể. Nếu như trước đây việc xây dựng một Luật thường mất khoảng hai năm thì hiện nay, chỉ trong vòng ba tháng, Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Quốc hội 5 lượt dự thảo Luật và đều được thông qua. Dự kiến cuối năm nay sẽ xây dựng, sửa đổi và trình Quốc hội trong kỳ họp thứ X. Điều này cho thấy yêu cầu cấp thiết phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện Nghị định hướng dẫn thi hành, bảo đảm đúng trình tự, thủ tục và quy định của pháp luật.

“Hội thảo được tổ chức với tinh thần cầu thị nhằm lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp, trao đổi từ đại diện các Bộ, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp. Đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này cũng như các quy định liên quan đến nhãn hàng hóa”, ông Hải nhấn mạnh.

Trình bày những điểm mới của dự thảo Nghị định, bà Nguyễn Thị Mai Hương – Trưởng ban Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp nhấn mạnh, Nghị định gồm 8 chương, 99 điều, 16 biểu mẫu, 05 phụ lục liên quan đến nhãn hàng hóa. Nghị định phân loại hàng hóa theo mức độ rủi ro thay vì theo nhóm, trong đó, phân loại theo 3 mức độ rủi ro là cao, trung bình, thấp.

Bên cạnh đó, Nghị định quy định áp dụng các phương pháp đánh giá rủi ro theo chuẩn mực quốc tế ISO/IEC 31010 (TCVN ISO/IEC 31010); tiêu chí đánh giá theo mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, tác động đến môi trường, khả năng kiểm soát trong chuỗi cung ứng và thông tin cảnh báo từ các tổ chức quốc tế như WHO, FAO, OECD…

Bà Nguyễn Thị Mai Hương – Trưởng ban Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp.

Về phát triển Hạ tầng Chất lượng Quốc gia (NQI): xây dựng, kết nối, chia sẻ dữ lệu trong NQI, trong đó có cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, ứng dụng công nghệ số trong NQI và hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm hàng hoá quốc gia.

Về ứng dụng công nghệ số trong quản lý chất lượng và chuyển đổi số, bà Hương cho biết, khuyến khích và từng bước bắt buộc áp dụng các công nghệ tiên tiến (AI, blockchain, IoT, big data) trong quản lý chất lượng; Dựa trên phân tích dữ liệu lớn, tích hợp cảnh báo trong nước và quốc tế, ứng dụng AI để phát hiện sớm sản phẩm có nguy cơ không đảm bảo chất lượng – Hệ thống cảnh báo rủi ro;

Phát triển công cụ trực tuyến, tích hợp dữ liệu từ doanh nghiệp và cơ quan quản lý; áp dụng AI để dự báo rủi ro, IoT để thu thập dữ liệu tự động – kiểm tra chất lượng trên nền tảng số; Thiết lập kênh trực tuyến, đảm bảo minh bạch, có phản hồi công khai đến tổ chức, cá nhân gửi thông tin – Tiếp nhận phản ánh, khiếu nại điện tử.

Dự thảo Nghị định cũng quy định rõ truy xuất nguồn gốc bắt buộc với sản phẩm rủi ro cao, các Bộ ban hành danh mục, lộ trình áp dụng phù hợp với năng lực doanh nghiệp và đặc thù ngành. Bên cạnh đó, mã truy vết sản phẩm, địa điểm theo TCVN 13274; vật mang dữ liệu theo TCVN 13275. Dữ liệu truy xuất được kết nối với Cổng thông tin TXNG quốc gia.

Hộ chiếu số của sản phẩm (DPP) cũng phải bao gồm nội dung tối thiểu như: GTIN, tên, địa chỉ, mã định danh tổ chức, thông tin xuất xứ, TXNG, nguồn gốc nguyên vật liệu, quá trình sản xuất, chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy, tính bền vững… Áp dụng hộ chiếu số theo lộ trình, ưu tiên trước đơn vị hàng chủ lực của Việt Nam có mức độ rủi ro cao và phục vụ xuất khẩu; hàng thuộc phạm vi quản lý của QCVN. Hộ chiếu số có thể được tích hợp với nhãn điện tử nếu đáp ứng yêu cầu về nội dung và hình thức.

Chia sẻ thêm về nhãn hàng hóa, bà Hương nhận định vẫn còn những tồn tại và bất cập trong quy định về cách ghi tên và địa chỉ tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa trong trường hợp thuê gia công; Quy định trách nhiệm ghi nhãn trong trường hợp tổ chức, cá nhân đặt gia công sản xuất hàng hóa; Quy định cách ghi xuất xứ đối với sản phẩm chỉ thực hiện các công đoạn đơn giản tại Việt Nam như: lắp ráp, đóng chai, phối trộn, hoàn tất, đóng gói, dán nhãn tại Việt Nam.

Ông Bùi Bá Chính – Quyền Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia. 

Nhãn điện tử trong dự thảo Nghị định gồm 4 nội dung, trong đó, thứ nhất là hàng hóa có mức độ rủi ro thấp: Doanh nghiệp có thể sử dụng nhãn điện tử; thứ hai là hàng hóa có mức độ rủi ro trung bình, cao: Các nội dung khác có thể thể hiện bằng nhãn điện tử (trừ 03 nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn vật lý); thứ ba là doanh nghiệp có trách nhiệm duy trì và lưu trữ nhãn điện tử đã công bố trong thời gian tối thiểu 12 tháng kể từ thời điểm sản phẩm hết thời hạn lưu thông; thứ tư là nội dung lưu trữ phải bảo đảm truy xuất được lịch sử thay đổi (nếu có) và sẵn sàng cung cấp khi có yêu cầu.

Về ghi nhãn hàng hóa trên nền tảng số và thương mại điện tử: Chủ quản nền tảng TMĐT phải hiển thị công khai thông tin nhãn hàng hóa, nhãn điện tử (nếu có); Khai báo, cập nhật chính xác hàng hóa và bảo đảm hàng hóa khi giao đến tay người tiêu dùng phải có nhãn.

Về nội dung kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu: Hàng nhập khẩu có mức độ rủi ro trung bình, công bố hợp quy, tự công bố dựa trên kết quả tự đánh giá sự phù hợp, công bố dựa trên chứng nhận hợp quy của tổ chức chứng nhận được công nhận hoặc chỉ định. Trường hợp hàng hóa cùng loại, không thay đổi về QCKT, thông số kỹ thuật hoặc không có cảnh báo rủi ro thì không phải công bố lại cho từng lô hàng.

Về phân công trách nhiệm quản lý chất lượng SPHH, dự thảo Nghị định nêu rõ trách nhiệm, một sản phẩm – một đầu mối quản lý: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước; Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan đầu mối; Mỗi sản phẩm, hàng hóa chỉ do một bộ, ngành chủ trì quản lý.

Ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Ủy ban TCĐLCL Quốc gia chủ trì phiên thảo luận tại hội thảo.

Trong khuôn khổ hội thảo, ông Bùi Bá Chính – Quyền Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia đã trình bày về Demo nhãn điện tử quốc gia (elabel.gov.vn) và Hệ thống hộ chiếu số của sản phẩm quốc gia (dpp.gov.vn). Theo ông Chính, nhãn điện tử phải được thiết lập dưới dạng mã số, mã vạch, mã QR, RFID hoặc các công nghệ khác. CSDL nhãn điện tử quốc gia là một bộ phận của CSDL về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Hỗ trợ định danh và đảm bảo tính toàn vẹn, minh bạch của chuỗi thông tin. Khả năng truy cập dễ dàng cho người tiêu dùng.

Quy trình đăng ký nhãn điện tử gồm 3 bước: Bước 1, đăng ký tài khoản: Đăng nhập hệ thống elabel.gov.vn; Sử dụng tài khoản do hệ thống cấp hoặc tài khoản định danh điện tử VneID; bước 2: Kê khai thông tin sản phẩm: Nhập mã định danh GTIN (chuẩn GS1 toàn cầu); Nếu chưa có GTIN → Đăng ký quyền sử dụng mã số, mã vạch; Kê khai đầy đủ thông tin theo quy định; bước 3: Nhận nhãn điện tử: Hệ thống tạo mã QR hoặc Data Matrix gắn mã lên sản phẩm có thể cập nhật thêm các nội dung không bắt buộc.

Về hệ thống hộ chiếu số của sản phẩm quốc gia, được thiết lập dưới dạng dữ liệu điện tử, gắn với mã định danh duy nhất. Có thể sử dụng mã số, mã vạch hoặc công nghệ khác. Đảm bảo thông tin trung thực, đầy đủ, cập nhật kịp thời. Khả năng kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc và hạ tầng chất lượng quốc gia.

Các đại biểu chia sẻ ý kiến tại hội thảo.

Toàn cảnh hội thảo.

Hội thảo cũng diễn ra phần trao đổi, thảo luận. Đại diện cơ quan quản lý đã giải đáp những thắc mắc, khó khăn trong dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quy định về nhãn hàng hóa.

Tin bài: tcvn.gov.vn

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *